Được xem là một cuộc cách mạng trên thế giới mạng, thế hệ web mới có những thay đổi quan trọng không chỉ ở nền tảng công nghệ mà còn cả ở cách thức sử dụng - hình thành nên môi trường cộng đồng, ở đó mọi người cùng tham gia đóng góp cho xã hội "ảo" chứ không chỉ "duyệt và xem".
Web 2.0 là gì? Làm sao phân biệt đâu là Web 1.0 đâu là Web 2.0? Thuật ngữ "Web 2.0" đang trở nên thịnh hành. Thực chất, Web 2.0 có nghĩa là sử dụng web đúng với bản chất và khả năng của nó.
Mục tiêu đầu tiên của những người tiên phong xây dựng Internet là nhằm kết nối các nhà nghiên cứu và các máy tính của họ với nhau để có thể chia sẻ thông tin hiệu quả. Khi bổ sung World Wide Web (năm 1990), Tim Berners-Lee cũng nhằm mục tiêu tạo phương tiện cho phép người dùng tự do đưa thông tin lên Internet và dễ dàng chia sẻ với mọi người (trình duyệt web đầu tiên do Berners-Lee viết bao gồm cả công cụ soạn thảo trang web). Tuy nhiên, sau đó web đã phát triển theo hướng hơi khác mục tiêu ban đầu.
Tuy có một số ngoại lệ nhưng thế giới Web 1.0 (thế hệ web trước Web 2.0) chủ yếu gồm các website "đóng" của các hãng thông tấn hay các công ty nhằm mục đích tiếp cận độc giả hay khách hàng hiệu quả hơn. Nó là phương tiện phát tin hơn là phương tiện chia sẻ thông tin. Chỉ đến gần đây, với sự xuất hiện của nhiều kỹ thuật mới như blog (hay weblog), wiki... web mới trở nên có tính cộng đồng (và cộng tác) hơn và trở nên gần hơn với sự kỳ vọng và khả năng thực sự của nó.
Khái niệm Web 2.0 đầu tiên được Dale Dougherty, phó chủ tịch của O’Reilly Media, đưa ra tại hội thảo Web 2.0 lần thứ nhất do O’Reilly Media và MediaLive International tổ chức vào tháng 10/2004. Dougherty không đưa ra định nghĩa mà chỉ dùng các ví dụ so sánh phân biệt Web 1.0 và Web 2.0: "DoubleClick là Web 1.0; Google AdSense là Web 2.0. Ofoto là Web 1.0; Flickr là Web 2.0. Britannica Online là Web 1.0; Wikipedia là Web 2.0. v.v...".
Sau đó Tim O’Reilly, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành O’Reilly Media, đã đúc kết lại 7 đặc tính của Web 2.0:
1. Web có vai trò nền tảng, có thể chạy mọi ứng dụng
2. Tập hợp trí tuệ cộng đồng
3. Dữ liệu có vai trò then chốt
4. Phần mềm được cung cấp ở dạng dịch vụ web và được cập nhật không ngừng
5. Phát triển ứng dụng dễ dàng và nhanh chóng
6. Phần mềm có thể chạy trên nhiều thiết bị
7. Giao diện ứng dụng phong phú
Thoạt đầu, Web 2.0 được chú trọng tới yếu tố công nghệ, nhấn mạnh tới vai trò nền tảng ứng dụng. Nhưng đến hội thảo Web 2.0 lần 2 tổ chức vào tháng 10/2005, Web 2.0 được nhấn mạnh đến tính chất sâu xa hơn – yếu tố cộng đồng.
Thực tế, ứng dụng trên web là thành phần rất quan trọng của Web 2.0. Hàng loạt công nghệ mới được phát triển nhằm làm cho ứng dụng trên web mạnh hơn, nhanh hơn và dễ sử dụng hơn, được xem là nền tảng của Web 2.0.
Kiến trúc công nghệ của Web 2.0 hiện vẫn đang phát triển nhưng cơ bản bao gồm: phần mềm máy chủ, cơ chế cung cấp nội dung, giao thức truyền thông, trình duyệt và ứng dụng.
Cung cấp nội dung
Bước phát triển đầu tiên và quan trọng nhất hướng đến Web 2.0 đó là cơ chế cung cấp nội dung, sử dụng các giao thức chuẩn hoá để cho phép người dùng sử dụng thông tin theo cách của mình (nghĩa là có khả năng tùy biến thông tin). Có nhiều giao thức được phát triển để cung cấp nội dung như RSS, RDF và Atom, tất cả đều dựa trên XML. Ngoài ra còn có các giao thức đặc biệt như FOAF và XFN dùng để mở rộng tính năng của website hay cho phép người dùng tương tác.
Dịch vụ web
Các giao thức truyền thông 2 chiều là một trong những thành phần then chốt của kiến trúc Web 2.0. Có hai loại giao thức chính là REST và SOAP. REST (Representation State Transfer) là dạng yêu cầu dịch vụ web mà máy khách truyền đi trạng thái của tất cả giao dịch; còn SOAP (Simple Object Access Protocol) thì phụ thuộc máy chủ trong việc duy trì thông tin trạng thái. Với cả hai loại, dịch vụ web đều được gọi qua API. Ngôn ngữ chung của dịch vụ web là XML, nhưng có thể có ngoại lệ.
Một ví dụ điển hình của giao thức truyền thông thế hệ mới là Object Properties Broadcasting Protocol do Chris Dockree phát triển. Giao thức này cho phép các đối tượng ảo (tồn tại trên web) tự biết chúng "là gì và có thể làm gì”, nhờ vậy có thể tự liên lạc với nhau khi cần.
Phần mềm máy chủ
Web 2.0 được xây dựng trên kiến trúc web thế hệ trước nhưng chú trọng hơn đến phần mềm làm việc ở background. Cơ chế cung cấp nội dung chỉ khác phương thức cấp phát nội dung động (của Web 1.0) về danh nghĩa, tuy nhiên dịch vụ web yêu cầu tiến trình làm việc và dữ liệu chặt chẽ hơn.
Các giải pháp phát triển theo hướng Web 2.0 hiện nay có thể phân làm hai loại: hoặc xây dựng hầu hết tính năng trên một nền tảng máy chủ duy nhất; hoặc xây dựng ứng dụng "gắn thêm" cho máy chủ web, có sử dụng giao tiếp API.
Web 2.0 là gì? Làm sao phân biệt đâu là Web 1.0 đâu là Web 2.0? Thuật ngữ "Web 2.0" đang trở nên thịnh hành. Thực chất, Web 2.0 có nghĩa là sử dụng web đúng với bản chất và khả năng của nó.
Mục tiêu đầu tiên của những người tiên phong xây dựng Internet là nhằm kết nối các nhà nghiên cứu và các máy tính của họ với nhau để có thể chia sẻ thông tin hiệu quả. Khi bổ sung World Wide Web (năm 1990), Tim Berners-Lee cũng nhằm mục tiêu tạo phương tiện cho phép người dùng tự do đưa thông tin lên Internet và dễ dàng chia sẻ với mọi người (trình duyệt web đầu tiên do Berners-Lee viết bao gồm cả công cụ soạn thảo trang web). Tuy nhiên, sau đó web đã phát triển theo hướng hơi khác mục tiêu ban đầu.
Tuy có một số ngoại lệ nhưng thế giới Web 1.0 (thế hệ web trước Web 2.0) chủ yếu gồm các website "đóng" của các hãng thông tấn hay các công ty nhằm mục đích tiếp cận độc giả hay khách hàng hiệu quả hơn. Nó là phương tiện phát tin hơn là phương tiện chia sẻ thông tin. Chỉ đến gần đây, với sự xuất hiện của nhiều kỹ thuật mới như blog (hay weblog), wiki... web mới trở nên có tính cộng đồng (và cộng tác) hơn và trở nên gần hơn với sự kỳ vọng và khả năng thực sự của nó.
Khái niệm Web 2.0 đầu tiên được Dale Dougherty, phó chủ tịch của O’Reilly Media, đưa ra tại hội thảo Web 2.0 lần thứ nhất do O’Reilly Media và MediaLive International tổ chức vào tháng 10/2004. Dougherty không đưa ra định nghĩa mà chỉ dùng các ví dụ so sánh phân biệt Web 1.0 và Web 2.0: "DoubleClick là Web 1.0; Google AdSense là Web 2.0. Ofoto là Web 1.0; Flickr là Web 2.0. Britannica Online là Web 1.0; Wikipedia là Web 2.0. v.v...".
Sau đó Tim O’Reilly, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành O’Reilly Media, đã đúc kết lại 7 đặc tính của Web 2.0:
1. Web có vai trò nền tảng, có thể chạy mọi ứng dụng
2. Tập hợp trí tuệ cộng đồng
3. Dữ liệu có vai trò then chốt
4. Phần mềm được cung cấp ở dạng dịch vụ web và được cập nhật không ngừng
5. Phát triển ứng dụng dễ dàng và nhanh chóng
6. Phần mềm có thể chạy trên nhiều thiết bị
7. Giao diện ứng dụng phong phú
Thoạt đầu, Web 2.0 được chú trọng tới yếu tố công nghệ, nhấn mạnh tới vai trò nền tảng ứng dụng. Nhưng đến hội thảo Web 2.0 lần 2 tổ chức vào tháng 10/2005, Web 2.0 được nhấn mạnh đến tính chất sâu xa hơn – yếu tố cộng đồng.
Thực tế, ứng dụng trên web là thành phần rất quan trọng của Web 2.0. Hàng loạt công nghệ mới được phát triển nhằm làm cho ứng dụng trên web mạnh hơn, nhanh hơn và dễ sử dụng hơn, được xem là nền tảng của Web 2.0.
Kiến trúc công nghệ của Web 2.0 hiện vẫn đang phát triển nhưng cơ bản bao gồm: phần mềm máy chủ, cơ chế cung cấp nội dung, giao thức truyền thông, trình duyệt và ứng dụng.
Cung cấp nội dung
Bước phát triển đầu tiên và quan trọng nhất hướng đến Web 2.0 đó là cơ chế cung cấp nội dung, sử dụng các giao thức chuẩn hoá để cho phép người dùng sử dụng thông tin theo cách của mình (nghĩa là có khả năng tùy biến thông tin). Có nhiều giao thức được phát triển để cung cấp nội dung như RSS, RDF và Atom, tất cả đều dựa trên XML. Ngoài ra còn có các giao thức đặc biệt như FOAF và XFN dùng để mở rộng tính năng của website hay cho phép người dùng tương tác.
Dịch vụ web
Các giao thức truyền thông 2 chiều là một trong những thành phần then chốt của kiến trúc Web 2.0. Có hai loại giao thức chính là REST và SOAP. REST (Representation State Transfer) là dạng yêu cầu dịch vụ web mà máy khách truyền đi trạng thái của tất cả giao dịch; còn SOAP (Simple Object Access Protocol) thì phụ thuộc máy chủ trong việc duy trì thông tin trạng thái. Với cả hai loại, dịch vụ web đều được gọi qua API. Ngôn ngữ chung của dịch vụ web là XML, nhưng có thể có ngoại lệ.
Một ví dụ điển hình của giao thức truyền thông thế hệ mới là Object Properties Broadcasting Protocol do Chris Dockree phát triển. Giao thức này cho phép các đối tượng ảo (tồn tại trên web) tự biết chúng "là gì và có thể làm gì”, nhờ vậy có thể tự liên lạc với nhau khi cần.
Phần mềm máy chủ
Web 2.0 được xây dựng trên kiến trúc web thế hệ trước nhưng chú trọng hơn đến phần mềm làm việc ở background. Cơ chế cung cấp nội dung chỉ khác phương thức cấp phát nội dung động (của Web 1.0) về danh nghĩa, tuy nhiên dịch vụ web yêu cầu tiến trình làm việc và dữ liệu chặt chẽ hơn.
Các giải pháp phát triển theo hướng Web 2.0 hiện nay có thể phân làm hai loại: hoặc xây dựng hầu hết tính năng trên một nền tảng máy chủ duy nhất; hoặc xây dựng ứng dụng "gắn thêm" cho máy chủ web, có sử dụng giao tiếp API.
3 nhận xét:
Công nghệ web này biến mọi thứ thành có thể và điều đó có nghĩa là những gì mà các trang web này làm được là hoàn toàn mới. Sự đơn giản luôn luôn đóng một vai trò quan trọng. Thông thường đó là một ứng dụng có khả năng thực hiện một nhiệm vụ và nó hoàn thành nhiệm vụ này khá tốt.
Caroline McCarthy, biên tập trang web chuyên về công nghệ thông tin CNET.com đã chia sẻ những điều rất thú vị: "Tôi bắt đầu sử dụng một trang web mới có tên Remember The Milk - một trình quản lý công việc. Nó cực kỳ đơn giản, rất dễ sử dụng để liệt kê những việc bạn cần phải hoàn thành, những địa điểm bạn cần phải đến, những thứ bạn phải mua, và một số việc khác nữa.
Clipmarks là một trang web bạn chỉ có thể chia sẻ các clip hoặc một phần trang web chứ không phải là một trang web đánh dấu (bookmark) hoàn chỉnh, tuy nhiên, nó rất phù hợp với đoạn trích dẫn.
Về cơ bản, Tumblr là một nền tảng blog dành cho những người không muốn sử dụng nền tảng blog. Nếu như bạn đã từng biết tới Wordpress, Blogger hay Yahoo! 360 - những trang tạo blog được rất nhiều người sử dụng - thì bạn sẽ thấy là nó có rất nhiều chức năng. Tumblr lại cực kỳ đơn giản".
Picturedots là một ví dụ điển hình cho sự sáng tạo của web 2.0. Bạn chọn một bức ảnh, đánh dấu những điểm mà bạn muốn, sau đó in ra, kết quả là bạn sẽ có một hình vẽ giống như trò tô màu của trẻ em.
Picturedots
Như vậy, có thể nói Picturedots đã cho thấy cách trình duyệt được người dùng sử dụng một cách hữu ích hơn chứ không phải chỉ có tác dụng giúp họ tìm kiếm xung quanh thế giới web.
Mark Chackerian, thuộc Picturedots, phát biểu: "Ý tưởng sử dụng trình duyệt của bạn như một công cụ vẫn còn là một khái niệm khá mới mẻ. Tôi là một chuyên gia Internet, đối với tôi, trình duyệt giống như một Swiss Army Knife (con dao bỏ túi đa chức năng). Tôi sử dụng nó vào rất nhiều việc. Đối với tôi, việc tìm ra cách chỉ cho mọi người thấy rằng họ có thể sử dụng trình duyệt của mình vào những công việc hoàn toàn mới, hoàn toàn khác so với trước đây khiến cho tôi cảm thấy mình là một phần của xu hướng mới".
Tương lai trực tuyến?
Khi mà Internet đang ngày càng thu hút được nhiều người dùng hơn với những giải pháp và dịch vụ miễn phí thì trình duyệt web cũng sẽ trở thành một cửa sổ trung tâm, thông qua nó, cuộc sống hàng ngày của chúng ta được kiểm soát, và rõ ràng, nó là một sự thay thế tiềm tàng đối với hầu hết các ứng dụng desktop.
Những gã khổng lồ phần mềm như Microsoft hay Adobe đã phát triển các ứng dụng online của riêng hãng, một trong số đó có cả những phần mềm desktop nổi tiếng, chẳng hạn như Office.
Adobe đã phát hành một phiên bản web cơ bản của phần mềm chỉnh sửa video của hãng có tên Remix, và cuối năm nay, Adobe cũng dự kiến sẽ phát hành phiên bản Internet của chương trình chỉnh sửa ảnh nổi tiếng Photoshop.
Nick Thompson, biên tập cấp cao của tờ Wired Magazine, phát biểu: "Microsoft và Adobe đã kiếm được hàng tấn tiền từ việc bán phần mềm trong những chiếc hộp nhỏ bé được đóng gói cẩn thận. Tuy nhiên, họ cũng nhận thấy rằng tương lai là phần mềm online. Vậy họ sẽ làm gì? Tôi cho rằng họ sẽ làm cả 2 thứ. Họ đủ khôn ngoan để có thể thực hiện được điều này, bởi lẽ họ cũng biết rằng đó sẽ trở thành một phần quan trọng trong công ty trong vòng 10 năm nữa. Tuy nhiên, họ cũng muốn vẫn duy trì sự thoải mái của những khách hàng hiện tại".
Trong khi đó, trong vài năm qua, Google lại xây dựng một bộ ứng dụng online hoàn chỉnh và miễn phí.
Docs and Spreadsheets là một sản phẩm mà hầu hết người dùng có thể sử dụng thay thế cho Microsoft Office mà không hề cảm thấy bực mình. Không những thế, họ còn tận dụng được khả năng hợp tác nhiều người dùng.
Lợi thế của các nhà quảng cáo
Câu hỏi đặt ra ở đây là những phần mềm online là nhằm mục đích đem lại lợi ích sử dụng cho người tiêu dùng hay chỉ là để tăng doanh thu quảng cáo.
Jonathan Rochelle, Giám đốc sản phẩm Docs & Spreadsheets của Google, phát biểu: "Luôn có những người nói rằng đó chỉ là một công cụ nhằm thu hút được nhiều sự chú ý hơn đến quảng cáo của chúng tôi. Nhưng tôi không cho rằng mọi người nhìn nhận đó là một điều tồi tệ, vô ích".
Một trong những động cơ khiến cho các công ty cung cấp phần mềm online là tính tương thích. Tất cả người dùng để có thể nâng cấp lên phiên bản mới nhất và tạo ra các file có tính tương thích hoàn toàn, không giống như các thế hệ tài liệu Word khác nhau.
Nick Thompson phát biểu: "Một lợi thế khác của phần mềm online là các công ty có thể theo dõi chính xác những gì bạn làm và bạn sử dụng chúng như thế nào. Do đó, họ có thể tạo ra một môi trường đặc biệt dành riêng cho bạn. Chẳng hạn như bạn gửi rất nhiều e-mail và họ biết rằng bạn đang cố tìm mua một chiếc điện thoại di động, khi đó họ có thể cung cấp cho bạn những quảng cáo về điện thoại di động. Do đó, các công ty thực sự thích điều này. Ban sử dụng chúng thường xuyên, họ sẽ thu được nhiều thông tin hơn và họ có thể bán cho bạn nhiều hàng hoá hơn".
Đối với những người lớn tuổi dùng ứng dụng desktop, những người vốn rất thận trọng trong các hoạt động online của mình, thường cảm thấy bối rối với xu hướng phần mềm online, tuy nhiên, với những người dùng trẻ hơn - thế hệ MySpace, những người rất thoải mái trong việc "phơi bày" các thông tin cá nhân - thì đó lại là một "món hời" lớn.
Bài viết này quá lâu rồi..có vẻ nó không được cập nhật đúng bản chất của web 2.0 của năm 2012.
Nhân Sâm
Bạn nên tìm hiểu bài viết của
Professor, Ph.D.Geun-Sik Jo
Inha University, Korea
về Semantic web
Đăng nhận xét